1. Virus marburg là gì? Được phát hiện ở đâu?
Marburg là tên của một chủng virus sốt xuất huyết được WHO đánh giá là cực kỳ nguy hiểm, được xếp vào nhóm nguy cơ số 4 - tức nhóm cao nhất trong bảng xếp hạng các mầm bệnh. Thông thường, các mầm bệnh thuộc nhóm này phải được ngăn chặn bằng các biện pháp an toàn sinh học cũng có cấp độ 4.

Virus Marburg được WHO đánh giá là cực kỳ nguy hiểm và xếp vào nhóm nguy cơ cao nhất
Loại virus này được phát hiện tại Uganda, Kenya - một quốc gia thuộc khu vực Đông Phi với nguy cơ lây nhiễm nhanh trên diện rộng. Cái tên Marburg xuất phát từ việc chúng được phát hiện lần đầu tiên tại thành phố Marburg, Đức vào năm 1967.
2. Nguồn lây nhiễm virus Marburg
Về cơ bản, Marburg là một chủng virus lây từ động vật sang người (zoonosis) với vật chủ tự nhiên là một loài dơi ăn quả có tên khoa học là Rousettus aegyptiacus. Đây là lý do người có nguy cơ lây nhiễm cao thường là những người sống và tiếp xúc nhiều với các loài dơi hoang dã trong các hang động.
Được biết, loài dơi này khá phổ biến tại Châu Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải và tiểu lục địa Ấn Độ. Các báo cáo cho thấy, đã có những trường hợp là khách du lịch mắc bệnh sau khi họ đến thăm hang động là nơi sinh sống của dơi ăn quả.

Dơi ăn quả Rousettus aegyptiacus là vật chủ tự nhiên của virus Marburg
Ngoài dơi Rousettus aegyptiacus, khỉ xanh Châu Phi cũng là một vật chủ tự nhiên mang trên mình loại virus nguy hiểm này. Chúng cũng chính là nguyên nhân gây ra đợt bùng phát đầu tiên tại thành phố Marburg vào năm 1967, khi các nhân viên của phòng thí nghiệm tiếp xúc với chúng rồi nhiễm bệnh và tử vong sau đó.
Trong cộng đồng, virus Marburg có thể lây lan qua tiếp xúc với dịch cơ thể của bệnh nhân, chẳng hạn như quan hệ tình dục không có biện pháp bảo vệ. Các mẫu máu của bệnh nhân cũng được xem là mối nguy hại cực lớn, chúng phải được đóng gói 3 lớp khi đưa đến phòng thí nghiệm.
Người tiếp xúc với bệnh nhân nhiễm virus Marburg cũng có nguy cơ lây nhiễm cao. Bên cạnh đó, các nghi thức chôn cất bệnh nhân tử vong cũng được đánh giá là tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Sau khi hoàn tất việc an táng, người tiếp xúc thi thể phải theo dõi sức khỏe trong 21 ngày.
3. Virus Marburg triệu chứng là gì?
Bệnh sốt xuất huyết gây ra bởi virus Marburg rất khó phân biệt với sốt xuất huyết thông thường. Mặc dù vậy, có một số triệu chứng điển hình để nhận biết khi bị nhiễm virus như:
* Từ lúc bắt đầu nhiễm virus đến khi có triệu chứng thường kéo dài từ 2 đến 21 ngày. Sau khoảng thời gian này, cơn sốt xuất huyết sẽ bất ngờ xuất hiện khiến bệnh nhân sốt cao, đau đầu một cách dữ dội.
* Toàn bộ cơ thể sẽ trở nên đau nhức, tiêu chảy nhiều nước, đau bụng, chuột rút, buồn nôn, nôn từ ngày thứ 3 trở đi.
* Tiêu chảy kéo dài trong suốt 1 tuần liền.
* Đôi mắt sâu hoắm, khuôn mặt vô cảm và cực kỳ thờ ơ.
* Máu tươi xuất hiện trong phân, chất nôn, dịch mũi, lợi hay thậm chí là âm đạo.
* Người nhiễm virus có thể trở nên lú lẫn, cáu kỉnh hoặc hung hăng bất thường nếu hệ thần kinh bị ảnh hưởng.
4. Virus Marburg nguy hiểm như thế nào?
Bên cạnh việc WHO xếp virus Marburg vào nhóm nguy cơ cao nhất, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng đưa nó vào nhóm “Tác nhân khủng bố sinh học loại A”. Lý do là bởi, đã từng có một số quốc gia đưa loại virus này vào chương trình nghiên cứu vũ khí sinh học bởi độ nguy hiểm của nó.
Theo các nhà khoa học, Marburg tuy là một loại virus gây bệnh sốt xuất huyết nhưng thuộc họ Filoviridae, chứ không thuộc Flaviviridae như virus sốt xuất huyết thông thường lây truyền qua muỗi. Đây là họ virus chỉ gồm 6 chi và mỗi chi chỉ có từ 2 đến 6 loài virus, không nhiều như Flaviviridae có đến 50 loài khác nhau.
Mặc dù vậy, xét về độ kịch độc của chúng thì gần như không có đối thủ. Nếu như Dengue, Zika thuộc họ Flaviviridae chỉ thuộc nhóm nguy cơ số 2 - tức hiếm khi nghiêm trọng và có thể điều trị, phòng ngừa thì Marburg lại “được” xếp vào nhóm nguy cơ số 4.
Khi nhiễm virus Marburg triệu chứng gây ra điển hình là gây chảy máu, sốt và các triệu chứng khác tương tự như Ebola. Các thống kê cho thấy, cứ 10 người mắc bệnh thì có đến 9 người tử vong, tương đương 88%. Chưa có thuốc chữa cũng như vắc xin phòng ngừa hiệu quả ở thời điểm hiện tại.